Mỗi độ tháng Năm về, khi đất trời ngập tràn sắc nắng của mùa hạ, trong trái tim mỗi người dân Việt Nam lại rộn lên những xúc cảm thiêng liêng, thành kính và lòng biết ơn vô hạn đối với những công lao, cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, người thầy kính yêu của Đảng, của dân tộc và của nhân dân ta. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, độc lập đất nước và hạnh phúc của nhân dân.
Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 135 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2025), một sự kiện có ý nghĩa sâu sắc, không chỉ là dịp để toàn dân tộc bày tỏ lòng biết ơn vô hạn, mà còn là dịp ôn lại những chặng đường lịch sử vẻ vang, những cống hiến vĩ đại của Bác Hồ kính yêu – người đã làm rạng rỡ dân tộc Việt Nam, góp phần tích cực vào sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha của Người là cụ Nguyễn Sinh Sắc – một nhà nho uyên bác, giàu lòng thương dân, có chí khí cách mạng. Mẹ là bà Hoàng Thị Loan – người phụ nữ tần tảo, đức hạnh, giàu đức hy sinh. Từ thuở thiếu thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống trong không khí yêu nước, chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than dưới ách thống trị thực dân, điều đó đã sớm hun đúc trong tâm hồn Người tinh thần yêu nước và khát vọng tự do, độc lập.
Từ mái nhà tranh đơn sơ nơi quê hương xứ Nghệ, Người đã lớn lên với lòng yêu nước thiết tha, chí hướng cứu nước cứu dân nung nấu từ thuở thiếu thời, để rồi vượt muôn trùng sóng gió, đi tìm con đường cách mạng chân chính cho dân tộc Việt Nam.
Chặng đường bôn ba tìm đường cứu nước của Người bắt đầu từ năm 1911, khi vừa tròn 21 tuổi, trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville Người rời bến cảng Nhà Rồng, bắt đầu hành trình hơn 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển, mang theo khát vọng cháy bỏng về một ngày độc lập, tự do cho đất nước.
Dưới tên gọi Văn Ba, rồi Nguyễn Ái Quốc, Người đã đến nhiều nước, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận cách mạng, tìm hiểu thực tiễn các phong trào đấu tranh trên thế giới. Những năm tháng sống tại Pháp, Anh, Mỹ, rồi Liên Xô và Trung Quốc đã giúp Người từng bước hình thành tư tưởng và con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam.
Đặc biệt, sự kiện Người tiếp cận với Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã mở ra bước ngoặt lịch sử trong tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản.”
Năm 1920, tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Cũng từ thời điểm đó, Người khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đã soi sáng con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức, trong đó có dân tộc Việt Nam.” Đây là bước ngoặt tư tưởng vô cùng quan trọng, đặt nền móng cho việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu bước chuyển mình lịch sử của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, được Người trực tiếp dẫn dắt, phong trào cách mạng nước ta không ngừng phát triển, khơi dậy tinh thần yêu nước và đấu tranh trong quần chúng nhân dân.
Đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, nhân dân cả nước vùng lên giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Giây phút thiêng liêng ấy đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước bước vào thời kỳ mới đầy gian nan. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc ta đã bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Với đường lối đúng đắn, chiến lược tài tình, Bác và Trung ương Đảng đã đưa kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang với chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.
Sau chiến thắng Điện Biên, miền Bắc được giải phóng, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam vẫn còn dưới ách xâm lược của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Trong bối cảnh ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục kêu gọi toàn dân đoàn kết, kiên định con đường cách mạng. Dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Người, Đảng ta phát động phong trào “Đồng khởi”, xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang tại miền Nam, tiến tới những chiến thắng vang dội như Ấp Bắc, Bình Giã, rồi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Dù sức khỏe giảm sút theo năm tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn theo dõi sát sao từng bước tiến của cách mạng. Trước lúc đi xa vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, Người đã để lại bản Di chúc thiêng liêng – một văn kiện chính trị và tư tưởng sâu sắc, trong đó thể hiện tấm lòng son sắt đối với Đảng, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng và với thế hệ mai sau. Di chúc của Người mãi mãi là ánh sáng chỉ đường cho công cuộc xây dựng đất nước, là lời nhắn nhủ thiêng liêng về đạo đức cách mạng, về sự đoàn kết, về chăm lo cho con người, nhất là thế hệ trẻ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng lỗi lạc, người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn là biểu tượng cao đẹp về đạo đức và nhân cách. Cả cuộc đời của Người là tấm gương mẫu mực về sự khiêm tốn, giản dị, yêu nước, thương dân, kiên trung, bất khuất. Dù là nguyên thủ quốc gia, Người vẫn sống trong căn nhà sàn mộc mạc giữa vườn Phủ Chủ tịch, tự tay trồng cây, viết báo, đọc thư nhân dân. Trong tâm thức của nhân dân, hình ảnh Bác Hồ luôn gắn với những điều bình dị mà thiêng liêng nhất – như một cây tre hiền hòa mà kiên cường giữa bão giông lịch sử.
Ngày nay, tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục là nền tảng vững chắc cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Tư tưởng của Người – kết tinh từ chủ nghĩa Mác – Lênin, truyền thống yêu nước và tinh hoa văn hóa nhân loại – là kim chỉ nam cho mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt, cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đã, đang và sẽ tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ, trở thành động lực tinh thần to lớn trong toàn xã hội.
Kỷ niệm 135 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là dịp để mỗi người dân Việt Nam tưởng nhớ, tri ân và soi lại chính mình trên con đường thực hiện lý tưởng cách mạng. Từ học sinh, sinh viên đến công nhân, nông dân, trí thức, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đồng bằng đến hải đảo xa xôi – tất cả đều chung một tấm lòng hướng về Bác, nguyện học theo Bác, sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Người để làm rạng danh Tổ quốc.
Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời đại. Tên tuổi của Người sống mãi với non sông, với trời biển Việt Nam. Trọn đời vì nước, vì dân, di sản lớn nhất mà Người để lại chính là tư tưởng, đạo đức, lối sống và niềm tin vào sức mạnh của nhân dân, vào con đường cách mạng, vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Hôm nay, trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, giữa muôn vàn cơ hội và thách thức, việc học tập và làm theo Bác càng trở nên cấp thiết. Mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Người, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, góp phần xây dựng đất nước ta “Ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như điều mà Bác hằng mong muốn./.
![]() |
|