|
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, công tác dân số cũng đối diện không ít thách thức: mức sinh thay thế chưa thực sự ổn định, tỷ suất sinh có xu hướng giảm xuống dưới mức cần thiết; tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh còn cao; việc tận dụng thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số còn nhiều hạn chế. Tuổi thọ trung bình có tăng nhưng số năm sống khỏe mạnh vẫn thấp. Một phần nguyên nhân bắt nguồn từ nhận thức chưa đầy đủ ở một số cấp ủy, chính quyền; sự phối hợp liên ngành chưa chặt chẽ; chính sách chậm được hoàn thiện; hệ thống tổ chức thiếu ổn định; nguồn lực cho công tác dân số chưa đảm bảo yêu cầu.
Trước yêu cầu mới của sự phát triển đất nước trong thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 149-KL/TW nhằm chỉ đạo sâu sát, toàn diện việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW. Theo đó, cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân số, với tư duy đổi mới, xác định rõ dân số không chỉ là vấn đề kế hoạch hóa gia đình mà còn là nhân tố cốt lõi trong phát triển bền vững. Công tác dân số phải được nhìn nhận như một nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp bách, vừa lâu dài, gắn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ, cần đổi mới toàn diện nội dung, hình thức tuyên truyền, vận động về công tác dân số, khai thác hiệu quả các nền tảng truyền thông hiện đại nhằm truyền tải chủ trương, chính sách và kiến thức dân số đến từng người dân. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội.
Song song với đó là việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân số để phù hợp với bối cảnh mới, từ quy mô, cơ cấu, chất lượng dân cư cho tới vấn đề phân bố hợp lý. Việc khẩn trương xây dựng và ban hành Luật Dân số là yêu cầu cấp thiết, đồng thời sửa đổi các quy định liên quan về số con được sinh, xử lý vi phạm chính sách dân số, chính sách khuyến khích sinh đủ hai con, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, hỗ trợ phụ nữ sinh con sớm và chính sách việc làm cho người nuôi con nhỏ… Tất cả nhằm hướng tới mục tiêu duy trì mức sinh thay thế, thu hẹp mất cân bằng giới tính khi sinh và nâng cao chất lượng dân số.
Bên cạnh đó, cần triển khai đồng bộ các giải pháp từ trung ương đến địa phương. Việc củng cố, phát triển mạng lưới dịch vụ dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản, chăm sóc người cao tuổi, phòng bệnh cho mẹ và trẻ em… phải được chú trọng. Việc bảo đảm nguồn lực, nhất là với vùng đồng bào dân tộc, miền núi, biên giới, hải đảo là điều kiện then chốt để nâng cao hiệu quả công tác dân số. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách về dân số cũng là một phần thiết yếu nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển hướng từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.
Một bước tiến mới trong quản lý dân số là hoàn thành việc kết nối, thống nhất dữ liệu dân cư, phục vụ công tác hoạch định chính sách chính xác, hiệu quả. Cùng với đó là xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026–2035. Chương trình này cần thể hiện một chiến lược dài hạn, có trọng tâm, trọng điểm, gắn chặt với các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng, và huy động sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và người dân.
Việc tổ chức thực hiện Kết luận 149-KL/TW đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt, thống nhất và đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, các bộ, ngành, nhất là ngành Y tế cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, thường xuyên kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết và kịp thời báo cáo kết quả. Đồng thời, cần lồng ghép nội dung dân số vào chương trình phát triển của các ngành, địa phương, sắp xếp lại bộ máy làm công tác dân số để nâng cao hiệu quả, bảo đảm tính liên tục, thống nhất trong toàn hệ thống.
Công tác dân số trong tình hình mới không chỉ là việc điều chỉnh mức sinh hay giải quyết mất cân bằng giới tính, mà còn là việc đảm bảo sức khỏe, chất lượng sống của người dân, giữ vững lợi thế dân số vàng và chuẩn bị sẵn sàng thích ứng với một xã hội già hóa đang cận kề. Đó là hành động vì tương lai của cả dân tộc, là trách nhiệm thiêng liêng, cao cả của mỗi chúng ta hôm nay, vì một Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và thịnh vượng.